Khu nhà của vị giám mục khá thấp và gọn gàng, nằm
ở phía tận bắc của Phố Hiến
và gần bờ sông. Khu nhà có tường bao khá cao, cổng vào quay ra đường, tương đối
rộng rãi, có nhà chạy hai bên lên tận khu tư dinh của giám mục. Phía trong tường
là khoảnh sân nhỏ ôm gọn khu tư dinh. Cuối sân nhỏ là khu ở của các người giúp
việc và các khu phòng ốc khác. Khu tư dinh không cao cũng chẳng rộng, không nằm
chính giữa sân mà sát về mé đường. Cổng mở suốt ngày và chỉ đóng về đêm. Phía
trước cổng vào có một phòng khá ngăn nắp, dường như được thiết kế để đón tiếp
người lạ bởi vì dù liền với dãy nhà như một gian nhưng lại không có sự liên thông
nào. Cửa vào phòng này nhìn ra cổng và cũng để mở toang suốt cả ngày.
Tôi đến và đi vào cổng nhưng không thấy ai ở ngoài
sân nên tôi đi vào căn phòng đó. Ngay cửa có một sợi dây rủ xuống, tôi kéo dây
và tiếng chuông vang lên, báo hiệu sự hiện diện của tôi. Vẫn chẳng ai xuất hiện
nên tôi ngồi xuống chờ. Những chiếc ghế xinh xắn vây quanh chiếc bàn đứng giữa
phòng và tường trong phòng được trang trí vài bức tranh phong cảnh châu Âu.
Chẳng bao lâu sau một trong số các vị linh mục đến
tiếp kiến tôi rất lịch thiệp. Tôi thảo luận với ông rất nhiều điều. Ông là người
Pháp nhưng nói tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha rất sõi. Chúng tôi trao đổi chủ
yếu bằng tiếng Tây Ban Nha, thứ tiếng mà tôi có thể hiểu tốt hơn là nói. Tôi hỏi,
ông trả lời và ngược lại tôi trả lời các câu ông hỏi. Đôi khi vì không thể diễn
tả bằng tiếng Tây Ban Nha, tôi chuyển sang dùng ngôn ngữ La tinh - vốn chữ mà tôi
vẫn còn lưu nhớ được chút đỉnh khi còn học ở nhà trường. Ông trò chuyện rất thoải
mái và trước hết hỏi tôi về công việc tôi đang tiến hành. Tôi đáp rằng tôi đang
trên đường lên Kẻ Chợ, nơi tôi đã đến một lần trước đó bằng đường thuỷ, nhưng bây
giờ thì đi đường bộ để thoả chí tò mò, rằng tôi không thể nào có thể bỏ qua việc
thăm viếng những người đồng hương châu Âu gặp trên đường, nhất lại là ở một nơi
nổi tiếng như Phố Hiến
đây. Ông ta còn hỏi tôi thêm nhiều chuyện nữa, nhất là tôi có phải là tín đồ
Gia tô dòng Rô Ma không. Tôi đáp “không” và ngay sau đó lại tiếp tục bàn luận về
chuyện tôn giáo, về sự tiến triển của phúc âm ở những vương quốc phương Đông.
Thoạt tiên ông ta nói về đảo Nicobar,
kể cho tôi nghe những gì mà tôi đã mô tả trong chương thứ 17 của cuốn Voyages round the World, trang 477 [320]
bởi đây chính là nhân vật mà tôi đã trích dẫn và từ đó mà tôi đã có được quan hệ,
như ông đã nói với tôi là ông có được từ một thày dòng Đôminican - người đã viết
cho ông từ pháo đài St. George. Nhưng thày dòng đó lại từng là hành khách của
thuyền trưởng Weldon trong chuyến đi từ một trong số đảo thuộc Nicobar đến pháo
đài St. George. Tôi hỏi ý kiến thuyền trưởng Weldon về mối quan hệ đó khi đang
viết cuốn sách trên và ông đưa ra những mô tả khá trái ngược về cư dân của vùng
Nicobar, nói rằng họ là những người cứng đầu, dối
trá và hay ăn cắp vặt, hoàn toàn không xứng đáng với những điều tốt đẹp mà vị thày dòng đã mô tả về họ.
Nhưng quay trở lại với cuộc đàm đạo giữa tôi và
vị linh mục người Pháp ở Phố
Hiến. Ông ta cho rằng ở sự truyền bá phúc âm ở Xiêm khá tốt thông qua sự
truyền giảng của một vị giám mục Pháp và sự trợ giúp của một vài vị tu sĩ ở đó.
Quan nhiếp chính của triều đình Xiêm, ngài Constant Falcon, đi theo đức tin của
Rô Ma nên vua Xiêm cũng tin theo và dường như cả vương quốc cũng ngả theo đức
tin này, đến nỗi người ta hi vọng rằng chỉ trong một thời gian ngắn nữa là toàn
bộ vương quốc ấy sẽ được cải đạo. Mặc cho người dân Xiêm có xu thế chống lại đạo
mới nhưng với tấm gương của vua và triều đình Xiêm, họ sẽ lần lượt đi theo, nhất
là khi các linh mục ở Xiêm lại có được sự tự do để làm công việc của mình. Còn
với Đàng Ngoài, vị linh mục cho biết, dân cư nhìn chung tin vào Cơ đốc nhưng
triều đình lại nghiêm ngặt cấm đoán. Giáo sĩ sống ở đây không dám mặc nhiên công
khai công việc truyền đạo của mình mà phải khép mình dưới danh nghĩa thương nhân
thay vì giới tăng lữ. Đây là trở ngại lớn đối với công việc truyền giáo ở Đàng
Ngoài nhưng các giám mục vẫn tìm được đường đi để đưa các con chiên thoát khỏi
sự mê muội và vì thế đến nay đã có khoảng 14.000 người đã được cải đạo, nhiều
người nữa đang được cải hoá hàng ngày. Ông ta nói với tôi rằng ở đây có 2 giám
mục, tôi đoán họ đều là người Pháp. Một người được phong là giám mục Ascalon và người kia là giám mục Auran. Ở đây có 10 linh mục châu Âu và 3
linh mục người bản địa được tấn phong là linh mục của giáo hội Rô Ma. Tôi được
cho biết rằng các vị giám mục người Pháp này không được sống ở Kẻ Chợ, cũng không
được đi đến đó nếu không có giấy phép của quan trấn thủ. Bản thân giấy phép đó
cũng chỉ có thể có được nếu như có sự ưu ái của một số quan lại sống ở Kẻ Chợ,
những người cho rằng các giám mục và các người truyền giáo sinh ra là để biểu
diễn các công việc tẹp nhẹp hay đại loại như thế. Những nhà truyền giáo ở đây đều
thông thạo với các công việc sửa chữa các loại đồng hồ - những việc mà dân địa
phương vốn kém hiểu biết – và điều này là một lợi thế để quan lại triệu tập họ
lên Kẻ Chợ. Khi đã lên đến kinh đô rồi họ sẽ biến một việc cỏn con vốn cần không
quá 5 đến 6 giờ đồng hồ để hoàn thiện thành một việc có vẻ khó khăn và cần gấp đôi
thời gian, thậm chí phải vài ngày mới làm xong được. Theo cách này họ có thời
giờ rảnh để thuyết giảng giáo lý trong khi lưu trú tại Kẻ Chợ. Họ cũng tranh thủ
thời gian này để tụ tập với người Anh và người Hà Lan, những người luôn thịnh tình
chào đón họ.
Tôi được thông báo một cách có cơ sở rằng những
người được cải đạo thường là những người nghèo và trong những ngày giáp hạt, tiếng
chuông leng keng gọi phân phát gạo còn góp phần cải đạo tốt hơn là các bài thuyết
giáo. Ngay cả những người được cho là đã cải đạo - theo kiểu tràng hạt hay ảnh
thánh - thì họ lại ngay lập tức suy giảm niềm tin khi nhìn thấy ruộng đồng tươi
tốt lúa và không bao lâu sau sẽ chẳng còn là con chiên như khi linh mục ban phát
thức ăn đồ uống cho họ trong lúc đói ăn. Bởi thế tôi không thể nghĩ gì hơn là các
con chiên Đàng Ngoài này - những người vốn có những khái niệm sâu về vị thần tối
cao của mình - lại có thể bị đưa đến chỗ tin theo Thiên chúa chỉ bởi những người
nhiệt thành và tốt bụng. Ở mức độ hiện nay, nó dường như không có vẻ gì là đạo
Thiên chúa lại có khả năng đơm hoa kết trái ở xứ sở này. Người Anh và người Hà
Lan ở các vùng đất phương Đông này đều là những kẻ chẳng mấy nhiệt thành trong
việc khuyếch trương thanh thế tôn giáo của họ - những người châu Âu khác cũng
thế cả, ý tôi là những nhà truyền giáo, nhất là người Bồ - hơn là những kẻ thuyết
giáo mù quáng. Nhưng thực ra mà nói bởi những nhà truyền giáo dòng Rô Ma là những
người duy nhất vượt qua đại dương và lục địa để thu phục người cải đạo nên có vẻ
như họ có thuận lợi hơn so với các mục sư Tin Lành ở các quốc gia thờ ngẫu tượng
phương Đông. Họ chỉ việc đưa các linh vật cho việc hành lễ như người địa phương
đã từng quen thuộc từ trước và chẳng hề hấn gì lắm để hoán đổi từ các tượng thần
ngoại giáo sang ảnh thánh, những thứ có thể cứu thế cho cả các linh hồn nghèo
khổ họ cải đạo vốn chỉ được hướng dẫn bằng cảm quan. Nhưng ở Đàng Ngoài cũng vậy,
cư dân được sinh ra với một niềm tin vào các vị thần linh hoặc các nhân vật anh
hùng của riêng họ vì thế khó mà có thể làm cho họ chuyển các thần tượng của họ
sang một dạng mới nếu chúng ta không có những kiến giải sâu sắc hơn để khẳng định
rằng những điều thay đổi đó có ý nghĩa hơn nhiều so với những gì mà các nhà
truyền giáo thường có thể cố gắng giúp đỡ họ. Nếu tôi được phép tự do nói lên
quan điểm của mình, tôi sẽ cho rằng sự sùng bái thần tượng của người theo Thiên
chúa gây hại hơn là đem đến thuận lợi cho các giáo đoàn của họ. Vì thế, điều cần
quan tâm hàng đầu là đưa tinh thần đạo đức và tính ân cần đến cho con người, tiếp
đến là đem đến cho họ một lịch sử giản yếu và một giản đồ về đức tin căn bản của
Thiên chúa, sau đó chỉ cho họ thấy họ sẵn lòng thế nào trước ánh sáng của đấng
tự nhiên và Đức chúa thì đáng được tôn kính đến nhường nào.
SOCIALIZE IT →