Đền Thiên Hậu (Thiên Hậu Cung)
Thiên Hậu
Cung thường gọi là đền Thiên Hậu thờ bà Lâm Tức Mặc - một vị thần cùa người
Hoa, đặc biệt là người Phúc Kiến (trong Hội An loại hình di tích tín ngưỡng này
được gọi là Chùa Bà). Đền thiên hậu nằm trên phố Bắc Hòa của Phố Hiến xưa nổi tiếng với câu ca:
Bến Nễ Độ gió nâng thuyền gấm
Phố Bắc Hoà nguyệt ngắm rèm the
Thú đô hội trong ngoài chẳng thiếu
Vạn lai triều là tiểu kinh đô
"Đại
Thanh Nhất Thống Chí viết: Thiên Hậu là tên một thần biển, con gái thứ sáu của
Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến.
Khi sinh ra có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ, lớn lên có phép mầu cưỡi
chiếu bay trên biển. Sau khi thăng hoá thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển.
Thời Tống, Nguyên, Minh Thanh thường hiển linh. Thời Khang Hy phong làm Thiên
Phi, sau gia phong Thiên Hậu.
Về sự
tích của bà chúng ta còn thấy ghi trong Đại Nam nhất thống chí, Ô Châu cận lục
..., tại đền Thiên Hậu ở Phố Hiến cũng có hai cuốn sách chép về về sự tích của
bà, là: Thiên Hậu thánh mẫu thánh tích đồ chí và cuốn Thiên Thượng thánh mẫu
cứu khổ chân kinh.
Việc thờ
Thiên Hậu dễ dàng được người Việt chấp nhận bởi vì đó là nữ thần. Bà Thiên Hậu
là người Trung Hoa được đi theo đường biển vào nước ta và ngược các dòng sông
đi lên. Hiện nay chúng ta thấy dọc theo bờ biển của Việt Nam có rất nhiều đền
thờ Thiên Hậu như: ở Phố Hiến (Hưng Yên), cửa Càn ở Nghệ An, Hội An, Quảng
Nam - Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh ... Đâu có
dấu chân của người Phúc Kiến di cư thì nơi đó có thờ Thiên Hậu".
Thông
thường khi nói đến Thiên Hậu ai cũng nghĩ đó là vị thần biển của Trung Hoa. Đối
với người Việt, trong thời kỳ bước đầu thương mại tương đối mở rộng thì hiện tượng các thần biển đi theo thương thuyền vào đất
liền đã là một thực tế của lịch sử. Một xu hướng thường đưa các thần biển gắn
liền với các sự tích Trung Hoa, được coi như để làm sang thần, tạo thêm uy thế
cho thần. Chúng ta thấy bên cạnh các thần biển như thần độc cước hoặc những cây
cỏ (cây mía) được tràn theo triền sông tới các vùng châu thổ là có nguồn gốc từ
hệ tộc Mã Lai đa đảo thì nhiều thần linh của biển như là thần Nam Hải (tức hình tượng thiêng
hoá của cá voi) cũng đã đi vào đến tận miền trung du mà chúng tôi có thể biết
được như ở Thạch Thất - Hà Tây với đình Hữu Bằng, thì một số vị thần linh khác
cũng đã theo triền sông vào cùng với Nam Hải Đại Vương, như: Tứ vị thánh nương,
rồi bà Thiên Hậu của những người Trung
Hoa cũng được đưa vào. Song, khi người Việt thờ bà thì đã chuyển hoá bà theo
các vị thánh mẫu của mình, hay nói đúng hơn bà là hoá thân của thánh mẫu Việt.
Và như vậy, ngôi đền Thiên Hậu ở Hưng Yên vừa mang tính chất Trung Hoa, vừa
mang tính chất Việt và được cả người Hoa cũng như người Việt đều tôn sùng.
Đền Thiên Hậu được xây dựng từ thế kỷ XVII, thời kỳ
thịnh đạt và phát triển rực rỡ của Phố Hiến. Theo truyền ngôn của nhân dân nơi
đây, cũng như Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung thuộc khu vực Hiến hạ, hầu
hết vật liệu kiến trúc công trình đều được làm sẵn từ Trung Quốc rồi chuyển
sang theo đường biển. Toàn bộ ngôi đền toạ lạc trên một khu đất rộng 1250 m2,mặt
tiền của đền quay nhìn về hướng đông nam. Tổng thể kiến trúc của đền khép kín
hình chữ nhật và mang đậm nét kiến trúc Hoa Nam. Kiến trúc chính của đền từ
ngoài vào trong bao gồm: cổng nội, cổng ngoại, đông phối, tây phối, hữu giải
vũ, tả giải vũ, thiêu hương và cuối cùng là hậu cung.
Cổng
ngoại gồm có ba cửa, cổng được xây bằng gạch. Cửa chính giữa có quy mô lớn với
bộ mái xây trên hai trụ gạch được lợp bằng ngói âm đương, bờ nóc được đắp cao,
chạy dài ra hai đầu rồi uốn cong vút lên, trên bờ nóc đắp trang trí hình hoa lá
mang đặc điểm của nghệ thuật kiến trúc Trung Hoa. Hai cổng phụ nhỏ hơn nằm cách
xa cổng chính và nối liền với cổng chính bằng hệ thống tường rào gạch hoa bằng
sứ men ngọc, với nhiều dạng hoa văn như:chữ thọ, chữ vạn, hoa cúc. Cổng ngoại
có tác dụng che chở cho toàn bộ di tích nhưng không hề nặng nề, nó vừa đảm bảo
được công dụng của nó, vừa mang một giá trị nghệ thuật cao.
Qua cổng
ngoại vào đến sân trước cổng nội, tại đây có một đôi nghê ngồi chầu ra phía
ngoài, được đặt đối xứng ở hai bên cửa chính. Đôi nghê này được tạc bằng đá hoa
cương - là một tác phẩm nghệ thuật, sản phẩm đặc trưng của văn hoá Trung Hoa.
Hai con nghê: một con ngậm ngọc bích(tượng trưng ở đay là một viên đá
tròn được đặt trong miệng nghê một cách khéo léo), một con đang ôm con, mỗi con
một dáng vẻ khác nhau trông rất sống động. Về sự tích hai con nghê này, còn lưu
truyền câu chuyện đổi con lấy ngọc: một con nghê vì tham lam nên đã đem con
mình để đổi lấy ngọc, sau đó thì ân hận nên được thể hiện với nét mặt buồn rầu;
một con thì đổi được nghê con nên nét mặt cười rạng rỡ. Người dân ở đây
còn truyền lại câu ca:
Tham vàng bỏ nghĩa ai ơi
Vàng thí ăn hết nghĩa tôi vẫn còn
Song, theo chúng tôi thì ngoài câu chuyện mang
tính giáo dục ấy thì con nghê này còn là một linh vật, tượng trưng cho trí tuệ
và sức mạnh tầng trên, nó được đặt ở vị trí này với tư cách như là một vị thần
kiểm soát tâm hồn những người hành hương, đồng thời ngăn chặn những tà ma, quỷ
quái muốn vào quấy nhiễu. Hai con nghê, một đực, một cái được bố trí đối xứng
như vậy còn là biểu hiện của thế âm dương đối đãi theo tư tưởng Dịch học của
Nho giáo.
Tiếp theo là đến cổng nội, đây là một công trình kiến
trúc Trung Hoa có kết cấu bằng gỗ, pha lẫn kiến trúc Việt Nam, mái được lợp
bằng ngói âm dương, bờ nóc cũng được đắp cao chạy dài, trên đó gắn nổi một vài
hình tượng thuộc tích truyện của Trung Quốc bằng mảnh sứ trông rất vui mắt. Bộ
vì của cổng chính có kêt cấu theo kiểu 4 hàng chân, chồng rường đấu vuông thót
đáy. Trên các hoạ tiết của di tích, bên cạnh đề tài hoa, lá chúng ta còn thấy
các hoa văn vân xoắn, đặc biệt trên một số con rồng và đầu dư còn thấy có các
đao lửa của tạo hình Việt, chứng tỏ niên đại của di tích có từ thế kỷ XVII.
Cổng nội có ba cửa làm theo kiểu bức bàn, mỗi cửa gồm hai cánh, trên mỗi cánh
phía ngoài đều có phù điêu quan văn, quan võ được chạm nổi, liền khối với cánh
cửa. Tượng khá lớn, chiếm toàn bộ diện tích cánh cửa và được tô sơn xanh, đỏ:
Hai tượng
ở cửa chính được tạo tác cầu kỳ, trang phục theo kiểu võ tướng, tay cầm chấp
kích, khá to lớn, nét mặt béo tốt, trang nghiêm. Phía trên cửa là bức đại tự
"Thiên Hậu Cung".
Bốn tượng
ở bốn cánh của hai cửa phụ tạc giống nhau, đều có trang phục theo lối quan văn,
tượng được thể hiện như đang chuyển dộng trong tư thế uyển chuyển mềm mại, khác
hẳn với tư thế trang nghiêm của hai tượng ở cửa giữa. Có thể nói đây là một tác
phẩm nghệ thuật điêu khắc bằng gỗ lớn nhất mang nét văn hoá của người Hoa trên
đất Phố Hiến.
Qua cổng
nội là vào đến sân trong, được khép kín bởi hệ thống các kiến trúc liên hoàn từ
cổng vào, gồm đông phối (nay thờ Tứ phủ chầu bà), tây phối (nay thờ Tam toà
Thánh mẫu), hai giải vũ và khu thờ chính. Ở đây, chúng ta quan tâm đền khu thờ
chính, gồm: toà tiền bái và hậu cung. Toà tiền bái nối với hậu cung tạo thành
hình chữ "đinh", toàn bộ ba mặt của toà tiền bái không có tường bao,
kết cấu kiến trúc được tạo bởi bốn hàng cột, nhưng thực chất là chỉ có ba, vì
hàng cột quân phía ngoài được làm bỏ lửng từ trên xuống và ở đầu cột phía dưới
là một bông hoa cách điệu, hàng cột này không hề chịu lực nhưng người ta vẫn
đưa vào để khi tiếp cận chúng ta vẫn thấy được sự cân đối của di tích. Bộ vì
của toà tiền bái có kết cấu theo kiểu chồng rường, với những đấu được tạo bởi
những bông hoa cách điệu. Trên toàn bộ câu đầu, vì kèo, xà nách, xen kẽ giữa
các con kê là rất nhiều tác phẩm điêu khắc nghệ thuật bằng gỗ, gồm hình người
với các tích trong các truyện của Trung Quốc như: Tây du ký, Tam quốc chí ... và đề tài cỏ cây, hoa lá, muông
thú các loại, được tô màu vàng, xanh, đỏ song không loè loẹt. Tiếp theo là vào
đến hậu cung, nơi thờ chính của di tích.
Ở đây,
các ban thờ được bài trí trang nghiêm, cân đối, hài hoà, ngoài các đồ tế tự
được mang sang từ Trung Quốc trước đây như: bộ ngũ sự, bát hương, độc bình, các
đồ bát bảo ...
là những hiện vật đáng quan tâm, thì di tích còn hệ thống tượng thờ như: Thuỷ
tiền vương, Thiên Hậu, Quan lớn tiền phong, Thiên lý nhãn, Thiên lý nhĩ ... là những pho tượng đẹp được tạo
tác công phu. Thực sự đây là những hiện
vật có giá trị nghệ thuật của di tích.
SOCIALIZE IT →