Đông Đô Quảng Hội
Đông Đô
Quảng Hội ngoài ý nghĩa là là một loại hình di tích tín ngưỡng, nó còn là hội
quán cùa người Hoa. Về mặt tín ngưỡng Đông Đô Quảng Hội là nơi thờ Tam
Thánh:
- Thần
Thái y (thần chủ về thày thuốc)
- Thần
Hoa Quang (thần chủ về dạy bách nghệ)
- Thần
Nông (thần chủ về dạy dân làm ruộng, chăn nuôi, trồng trọt)
Theo như
truyền ngôn của nhân dân địa phương thì Đông Đô Quảng Hội được những người Hoa
ở Phố Hiến xây dựng lên từ thế kỷ XVII. Hầu hết vật liệu để xây dựng công trình
được chở từ Phúc Kiến (Trung Quốc) sang. Trước kia kiến trúc gồm có hai toà theo
kiểu chữ nhị, ngày nay chỉ còn một toà: bên ngoài là cổng rồi đến sân và hai
nhà hội quán quay mặt vào sân, cuối cùng là nhà thờ - kiến trúc lớn nhất
của di tích.
Cổng Đông
Đô Quảng Hội gồm 3 gian, dài 11,5m, rộng 5,7m, cao 3,5m mái lợp ngói vây cá. Kết
cấu bộ vì theo kiểu giá chiêng, cột cái có xà đỡ câu đầu, con đấu kê chồng tam
cấp giữa những đấu có dải lá hoá theo kiểu hình vành khuyên, vừa là trang trí,
vừa tạo thế vững chắc cho trụ. Đặc điểm của kiến trúc bộ vì ở đây là các đấu
nhô hẳn đầu ra, cái đấu mang bóng dáng của đấu củng, gần như biểu tượng của đầu
con dê (tượng trưng cho quỷ vương), trong trường hợp này nó như nói lên sự quy
y của thế giới tà ám đối với thần linh. Cửa lớn có hai cánh được viền khung,
mỗi cánh rộng 1,5m, cao 2,5m, phía trên có bức đại tự "Đông Đô Quảng
Hội".
Tiếp đến
qua một sân gạch là đến ba gian hội quán, do bị dột nát hư hỏng nặng, nên năm
1975 đã được dỡ vào tu sửa cung thờ trong. Nơi đây vốn là nơi tụ họp, gặp mặt
của các chủ buôn và các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến để bàn về các việc liên
quan.
Cuối cùng
là hậu cung. Phía trên cửa chính hậu cung là đại tự được đắp nổi: "Tam
Thánh Đế", bên ngoài hiên còn có hai bia đá:
- Bia 1
đề " Ngũ phủ trùng kiến hội quán bi ký", niên hiệu Long Phi
tháng 8 năm Nhâm Tuất.
- Bia 2 đề
"Trùng kiến Đông Đô Quảng Hội bi ký", niên hiệu tháng 10 năm
Quý Mão.
Nội dung
của hai tấm bia này kể về việc trùng tu, tôn tạo hội quán và ghi tên những
người đã góp công tu sửa.
Hậu cung
gồm ba gian, gian chính điện để cửa bức bàn (4 bộ), phía trên cham lộng, dưới lồng ván kín. hai gian bên để cửa
sổ vuông, ở giữa có chữ "thọ" hình tròn, xung quanh có hoa lá trang
trí rất đẹp theo kiểu hai con rồng chầu
vào chữ "thọ" cũng như là rồng chầu mặt trời. Đây là đôi rồng được
làm theo ý nghĩa biểu tượng của nghệ thuật, đó là âm dương đối đãi ở trên bầu
trời mà các vân xoắn của nó tượng trưng cho sấm chớp. Chúng ta có thể nói rằng
đây là những con rồng rất đẹp và hiếm có trong nghệ thuật tạo hình ở trên
đất Việt.
Các mảng
chạm ở bộ cửa giữa là những cảnh đẹp của thiên nhiên và cũng là các tích gắn liền với ý nghĩa biểu tượng: mai
- điểu, trúc - tước, tùng - hạc, phượng vũ, mã phi. Ở chính giữa người ta lấy
tích mai - điểu có nghĩa là: Khi bước vào đây con người nghĩ đến cái thân
tâm, bởi vì "mai" là biểu hiện của sự thanh cao nhưng đồng thời
cũng là biểu hiện cho tiểu vũ trụ nhân thân..., trong cái không gian này như mang tư tưởng hoà,
tức là đem cái tâm cá thể hoà vào vũ trụ, rồi "trúc" biểu hiện cho
quân tử, "tùng" cũng là biểu hiện cho quân tử và cho sự thanh tao;
"chim phượng" mang ý nghĩa: Đầu đội công lý và đức hạnh; Mắt là mặt trời mặt trăng, lưng cõng bầu
trời, cánh là gió; Đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Bởi vậy
"phượng" tượng trưng cho cả bầu trời và tượng trưng cho sinh lực của
tầng trên.
Và, đặc biệt ở đây chúng ta nên quan tâm đến
những con ngựa. Ngựa mà như có cánh, được thể hiện ở nhiều vị trí, ngựa là một
linh vật của vùng đồng cỏ và khi chạy lướt đi nó như tượng trưng cho ánh sáng.
Con ngựa có cánh đã được coi như cõng ánh sáng chuyển động, và khi đó nó gắn
với dương khí, trong trường hợp chạy ở trên nước thì ít nhiều nó đã biểu
hiện "âm dương đối đãi".Thực ra cánh của ngựa chính là những đao lửa
được mọc ra từ vai hoặc khuỷu chân của nó để nói lên sức mạnh của lửa thiêng.
Trong tạo hình của người Việt Nam thì con ngựa có cánh như thế này, sớm nhất
thấy ở đình Tây Đằng, vào thế kỷ XVI. Rồi người ta lại thấy nó ở chùa Bút Tháp
vào giữa thế kỷ XVII, và ở trên những viên gạch ở chùa Sổ và một số nơi khác
cũng vào khoảng thế kỷ XVII. [ 11 ].
Vào trong hậu cung nơi thờ Tam thánh, chúng ta thấy kiến trúc ở đây được
làm theo kiểu giá chiêng chồng rường con nhị. Các dấu vết hiện nay trên bộ vì
cho thấy đây là sản phẩm được tu bổ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Ở chính giữa gian thờ phía ngoài đặt hai hương án, là những sản phẩm có
niên đại muộn từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhưng vẫn mang phong cách cổ
truyền. Tiếp theo phía trong là cỗ khám sơn son thiếp vàng lồng kính đặt ba pho
tượng Tam thánh, trên có bức đại tự "Nam Thiên Đế Tụ".
Đối với
di tích này, chúng ta cũng nên hiểu rằng, dù người Trung Hoa sang đây buôn bán và xây dựng một quê hương
mới, song họ cũng không quên mang theo những thần linh gốc của mình để luôn
nhắc nhở với nhau rằng đừng quên gốc. Tuy nhiên, trong di tích này, ngoài các
vị thần linh, thì nhiều nét chạm trổ trên đồ thờ đều đã theo phong cách Việt
Nam, như trên khám của ba vị thần tối thượng là một ví dụ cụ thể. Đó là hình
tượng rồng và hình chữ triện hoá thân thành rồng chầu hổ phù ở các bức y môn
(Trong hình thức này chúng ta hiểu đó là rồng chầu mặt trăng: "Lưỡng long
chầu nguyệt"). Những đường nét chạm trổ, với các văn triện ấy, đã đạt được
giá trị nghệ thuật tương đối cao và có ý thức.
Liền kề
với Đông Đô Quảng Hội là Thiên Hậu Cung - đây cũng là một loại hình di tích tín
ngưỡng của người Hoa và cũng được xây dựng cùng thời với Đông Đô Quảng Hội. Hai
di tích Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung nhìn từ bên ngoài là hai di tích
riêng biệt, vì đều có cổng riêng. Song, khi vào bên trong, thì hai di tích này
lại được thông nhau, hợp thành một cụm di tích thống nhất. Tuy nhiên ở đây
chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu Đông Đô Quảng Hội còn đối với loại hình di tích
Thiên Hậu Cung chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu ở đền "Thiên Hậu" hiện
nay nằm ở đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, nơi đây trước kia cũng vốn là
nơi cư ngụ của người Hoa ở Phố Hiến, gọi là Bắc Hoà thượng phố hay phố Khách.
SOCIALIZE IT →