Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

Dân cư Phố Hiến thế kỷ 17-18

Posted By: Unknown - 10:11

Cộng đồng cư dân phố hiến thế kỷ 17-18
          trong lịch sử, phố hiến là một thành phố đa quốc tịch, trong đó thành phần chủ thể là người việt và người hoa. những kiều dân ngoại quốc khác ở đây - thường trú hoặc tạm trú - là nhật, xiêm la, bồ đào nha, hà lan, anh, pháp…
          Người việt
số cư dân người việt có quê gốc lâu đời ngay tại phố hiến là tương đối ít. phần lớn dân cự ngụ ở phố hiến là từ các địa phương khác đổ về sinh sống làm ăn, đó là một cộng đồng cư dân tứ xứ. theo tấm bia chùa hiến dựng năm 1709, đã có tới hơn 50 địa phương rải rác khắp miền bắc đã có người di cư tới phố hiến làm ăn, như các huyện chương đức (hà tây ngày nay), đường hào (hưng yên), thuỷ nguyên (hải phòng), nông cống, hoằng hoá (thanh hoá), bố chính (quảng bình), thanh trì, từ liêm (hà nội).
bộ máy hành chính có các cơ quan của trấn sơn nam như thừa ty, trấn ty, hiến ty. ở phố hiến cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú, nhưng không hề có thành luỹ bao bọc xung quanh. các nhà nghiên cứu thường gọi phố hiến là “một đô thị bỏ ngỏ”.
quan chức trị nhậm phố hiến vào thời kỳ thịnh đạt nhất của đô thị này (trong nửa cuối thế kỷ xvii) là lê đình kiên (1620-1704). ông quê làng thiết danh, thiệu yên, thanh hoá, giữ chức trấn thủ sơn nam trong suốt 41 năm (1664-1704), cho đến khi mất ở tuổi 84. công đức ông rạng rỡ, được triều đình tín nhiệm, dân chúng yêu mến, các khách thương nước ngoài nể trọng. sau khi ông mất, nhân dân đã dựng đền thờ tưởng niệm ông. trong tấm bia anh linh vương do thương nhân trung quốc người phúc kiến là trần kế đào cho dựng khắc ở phố hiến để ca ngợi lê đình kiên, có đoạn viết: “ngài yêu dân như yêu con, dẹp yên giặc biển, tiết kiệm tiêu pha, ngay cả con trẻ cũng biết và ca ngợi lòng trung của ngài với vua với nước […] chúng tôi là những thương nhân đến từ xa, không dám tự coi mình là những thần dân. nhưng vì đã sống lâu năm ở việt nam, hưởng ân sủng của ngài, chúng tôi tỏ lòng nhiệt thành sủng ái ngài”.
william dampier cũng kể về lê đình kiên như sau: “viên quan trấn thủ ở đây [phố hiến] là một trong những đại thần của quốc gia, luôn có một số lớn quân lính trong thành phố và những quan chức thuộc hạ mà ông có thể tuỳ ý sử dụng trong bất cứ trường hợp nào […] viên trấn thủ hoặc đại diện của ông ta đã cấp giấy thông hành cho mọi tàu bè xuôi ngược, ngay cả đến một chiếc thuyền nhỏ cũng không khởi hành được nếu không có giấy phép”.
viên trấn thủ sơn nam kế nhiệm lê đình kiên vào năm 1704 đóng lị sở ở phố hiến là đặng đình tướng, người quê làng lương, huyện chương đức (hà tây), có họ hàng thuộc đàng ngoại với chúa trịnh. bia chùa thiên ứng cho biết đặng đình tướng và bà vợ là bùi thị khang, hai vợ chồng đều rất sùng phật, đã cúng tiền bạc cho nhà sư châu thuận và ni cô diệu my xây dựng lại đền linh hiên ở làng hoa dương.
ngoài 2 trấn thủ sơn nam, chúng ta được biết thêm tên của 2 viên hiến sát sứ ty. theo sách đại nam nhất thống chí, năm 1670, hiến sát sứ ty lúc đó là lê trí bình đã bị giáng chức vì cớ đốc suất đắp đường để tính việc chưa được rõ ràng. còn theo tấm bia ở xóm dinh (trác văn, duy tiên, hà nam) thì năm 1679, phan tự cường và trần công sơn đã được bổ nhiệm làm hiến sát và phó hiến sát sứ ty sơn nam. ít lâu sau, hai người này đã cho xây dựng trụ sở ty hiến sát ở thôn tường lân.



Hoa kiều và nhật kiều
bên cạnh cộng đồng người việt, đông đảo người hoa đã đến cư trú sinh nhai tại phố hiến. trước đây phố hiến còn được gọi là phố khách, điều đó nói lên tính trội của yếu tố hoa trong đô thị này.
người hoa đến cư trú tại phố hiến từ nhiều địa phương khác nhau trong đó có hai nguồn chính. thứ nhất là những người hoa vượt biển từ trung quốc sang việt nam. một số là những hoa kiều di tản tị nạn - những người trung thành với nhà tống và sau là nhà minh - một số là những chủ tàu thương nhân buôn bán đường dài xuyên đại dương. đại bộ phận những người hoa này có quê gốc ở các tỉnh miền nam trung hoa, đặc biệt ở các huyện phủ thuộc tỉnh phúc kiến (như tân giang, triều châu…). có những người tuy quê gốc ở phúc kiến nhưng đã sang làm ăn ở đảo hải nam, như trường hợp của thương nhân trần kế đào, người đã cho dựng bia anh linh vương ca ngợi công đức lê đình kiên.
nguồn thứ hai là những hoa kiều từ trung hoa từ lâu đời đã di cư bằng đường bộ sang việt nam, sau đó lại tiếp tục di chuyển đến phố hiến. trong đó có các hoa kiều từ vạn ninh (móng cái) và vân đồn, đặc biệt là từ thăng long - kẻ chợ đã đổ dồn về phố hiến.
địa điểm tụ cư đầu tiên của người hoa ở phố hiến là hoa dương, sau gộp thêm các xã hoa điền (lương điền), hoa cái (phương cái) hợp thành tam hoa.
các cửa hiệu của hoa kiều được tập trung ở phố khách, phố bắc hoà, nam hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. họ xây dựng nhiều đình, đền, chùa, miếu, quảng hội thờ các vị nhân thần người trung quốc như quan vân trường, dương qúy phi, lâm tức mặc. william dampier miêu tả về người trung quốc ở phố hiến như sau: “tất cả họ đều tết bím tóc dài ở đằng sau như phong tục của họ ở trong nước trước khi bị mông cổ chinh phục”. một số đã lấy vợ người việt nam, sau đó trở thành người minh hương.
tuyệt đại bộ phận người hoa ở phố hiến làm nghề buôn bán. một số có cửa hiệu ở các phố bắc hoà, nam hoà, bán các mặt hàng nhập từ trung quốc như vải vóc, đồ sứ, tạp hoá và thuốc bắc. đại nam nhất thống chí ghi ở 2 phố đó có làm và bán bông, vải, mật, đường cát. một số phú thương hoa kiều buôn bán đường dài vượt biển, buôn bán phố hiến với vùng hoa nam, các đảo hải nam, đài loan. đặc biệt, từ khi nhật bản có lệnh toả quốc (sakoku) vào năm 1636 cấm người nhật xuất dương, thì các phú thương hoa kiều đã thay chân người nhật độc quyền buôn bán tuyến nhật bản (hirado, nagasaki) - phố hiến, hoặc trực tiếp, hoặc chở thuê hàng hoá cho người phương tây, nhất là người hà lan. một số hoa kiều khác cũng chở các thuyền hàng buôn bán giữa phố hiến và các nước đông nam á phía nam, trong đó có thành phố batavia ở inđônêxia. nhật kí lưu trữ của công ty đông ấn anh có ghi lại trong khoảng 8 năm (từ 1672 đến 1680) các thuyền buôn trung hoa đã có 16 lần qua lại giữa phố hiến và nhật bản, 6 lần qua lại giữa phố hiến và nam dương. các mặt hàng buôn bán thường là: các loại tơ (xuất sang nhật bản); bạc, đồng (nhập từ nhật); hồ tiêu, đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ phía nam); tơ lụa, đồ gốm, đồ sơn (xuất đi batavia…). những hoa kiều buôn bán vượt đại dương nổi tiếng ở phố hiến được ghi lại là thuyền trưởng nithoe (theo nhật kí công ty đông ấn anh) và thương nhân trần kế đào.
sang thế kỷ xviii và xix, trong khi việc buôn bán giữa phương tây và phố hiến sa sút thì các hoa thương vẫn trụ lại ở đô thị này, gần như nắm giữ độc quyền các hoạt động ngoại thương. lúc này cũng có hiện tượng một số hoa thương ở phố hiến di cư ngược trở lại thăng long - hà nội, như trường hợp các gia đình họ phan ở phố hàng ngang.
hiện nay, vẫn có tới 14 họ thuộc các hoa kiều sinh sống ở phố hiến - hưng yên như các họ ôn, tiết, hoàng, lý, trần, bạch, quách, mã, thái, hà, hứa, từ, lâm, khu.
người nhật cũng đã đến phố hiến từ rất sớm vào khoảng đầu thế kỷ xvii. một số trong họ là thương nhân các châu ấn thuyền (shuinsen) trước lệnh toả quốc (sakoku) ban hành năm 1636.
từ năm 1604 đến 1636 đã có 47 châu ấn thuyền đến đàng ngoài. họ thường mang bạc, đồng đến mua đổi lấy các loại tơ hoặc vải lụa. một số khác là các giáo sĩ và giáo dân nhật bản, có tên đạo theo chữ la tinh, đã đi theo và phục vụ các giáo sĩ phương tây tới đàng ngoài giảng đạo, trong đó có giuliamo piani bên cạnh cha cố baldinotti và pedro marquez bên cạnh cha cố a. de rhodes.
sau lệnh toả quốc của mạc phủ tokugawa, các kiều dân nhật này không dám trở về tổ quốc mình vì sợ bị kết tội tử hình, đã nương náu ở lại đàng ngoài, trong đó có phố hiến. vì đã sinh sống lâu năm ở việt nam, những người nhật này thường làm một số nghề như hoa tiêu dẫn tàu vào cửa sông, phiên dịch, môi giới… trong chuyến đi của chiếc tàu grol của công ty đông ấn hà lan đến đàng ngoài cập bến phố hiến năm 1637, thuyền trưởng karel hartsinck đã sử dụng viên hoa tiêu kiêm phiên dịch guando, người phụ nữ nhật bản làm phiên dịch kiêm môi giới ouru san, một số người môi giới nhật bản khác và một người phiên dịch nhật bản “rất giỏi tiếng đàng ngoài và tiếng bồ đào nha”.
cũng theo nhật kí tàu grol, người ta có thấy ở đàng ngoài cả một làng kiều dân nhật làm đồ gốm theo kiểu gốm nhật hizen và một đoàn vũ nữ nhật bản. tàu zant của công ty đông ấn anh đến đàng ngoài có đậu ở phố hiến năm 1672 cũng sử dụng một viên hoa tiêu kiêm phiên dịch tên là domingo, là một người nhật bản theo đạo thiên chúa giáo.
tại phố hiến trước đây có một khu đất được gọi là nghĩa trang nhật bản, chứng tỏ sự có mặt của một cộng đồng người nhật tại đó, nhưng nay đã bị huỷ hoại, trở thành hoang phế.
ở phố hiến ngoài người trung quốc và nhật bản còn có các thương nhân châu á khác đến buôn bán như xiêm la, mã lai, lữ tống (philíppin), nhưng không rõ họ có lưu trú lại không.
Các khách thương phương tây
ngoài hai thành phần chính là người hà lanngười anh đã từng lập thương điếm ở phố hiến, còn một số người bồ đào nha và pháp.
người bồ đào nha là người phương tây đến đàng ngoài nói chung và phố hiến nói riêng sớm nhất. ngay từ 1626, giáo sĩ baldinotti đã từ macao qua phố hiến tới kẻ chợ. sau đó nhiều thuyền buôn bồ đào nha đã đến đàng ngoài, qua lại trên sông từ phố hiến đến kẻ chợ. đó là những thương nhân độc lập, không lập công ty, không đặt thương điếm. nhật kí hành trình tàu grol đã ghi lại, vào năm 1636, 3 thuyền buôn bồ đào nha đã đến đàng ngoài, ngược phố hiến lên kẻ chợ mua tơ sống, đổi lại bán các loại vải dạ nhung, làm giá tơ tăng vọt lên. những năm về sau, do sự cạnh tranh của hà lan và do chúa trịnh nghi ngờ người bồ đã ủng hộ giúp đỡ chúa nguyễn chống lại đàng ngoài, việc buôn bán của người bồ ở phố hiến có giảm sút. tuy nhiên, một số người bồ đào nha vẫn ở lại sinh sống ở phố hiến. một phụ nữ bồ ở phố hiến có tên monica dabada là người giàu có, lúc đầu đã có nhà cho công ty đông ấn anh thuê làm trụ sở thương điếm, sau này cũng đã cho công ty đông ấn anh thuê nhà ở kẻ chợ. monica dabada có chồng là người pháp, làm phụ tá cho công ty ấn độ pháp ở phố hiến.
tuy đến sau so với những người phương tây khác, đã có không ít những người pháp sống ở phố hiến vào những năm 80 của thế kỷ xvii. thương điếm của công ty ấn độ pháp thành lập ở phố hiến năm 1680. nhưng hoạt động của nó không đều và không sinh lợi như công ty đông ấn hà lan và anh. người pháp xoay ra hoạt động truyền giáo, nói đúng hơn là kết hợp việc buôn bán với việc truyền giáo.
gyfford phụ trách thương điếm anh ở phố hiến năm 1672 cho biết rằng: “người pháp có một ngôi nhà ở đây, nhưng chúng tôi không thể phân biệt được rằng nó dùng cho những mục đích tôn giáo hay vì phương tiện kinh tế”. đó là ngôi nhà xây bằng gạch mà william dampier đã khen là “đẹp nhất thành phố” của hai giám mục deyder và j. de bourges. dampier còn cho biết thêm là “các giám mục này hoạt động dưới danh nghĩa được mượn là các nhà mại biện thương nghiệp người pháp, họ đã có thể phần nào tự do truyền đạo cho các tín đồ và cải giáo cho những người dị đạo […] ở phố hiến, ngoài hai giám mục pháp trên còn cò 10 cố đạo người châu âu, thêm 3 người bản xứ đàng ngoài, cho đến lúc đó đã cải đạo cho được 14.000 người. các giáo sĩ pháp ở phố hiến khi muốn lên kinh đô thăng long đều phải xin và được cấp phép, và họ thường tìm cách nấn ná ở lại đó một thời gian…”.

mặt khác, năm 1680, thương nhân người pháp chappelain đi trên con tàu tonquin đã đến phố hiến và theo lời khuyên của giám mục deydier, mang nhiều đồ hiếm đẹp mà làm quà dâng tặng vua chúa và các quan, bán hàng rẻ hơn người anh để được phép mở thương điếm. nhưng sau do hoạt động không kết quả, chappelain đã bỏ đi bantam (inđônêxia) để lại viên phụ tá của mình và một người giúp việc. viên phụ tá này vào đầu năm 1682 đã kết hôn với người phụ nữ bồ đào nha monica dabada đã nói ở trên.

Admin Unknown

Chào mừng bạn đến với trang thông tin Phố Hiến, cùng chúng tôi hãy xây dựng một Phố Hiến văn hóa, bản sắc, phát triển.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

BẢN ĐỒ PHỐ HIẾN NAY

TRANG TIN

Trang tin nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị Phố Hiến Hưng Yên

Copyright © 2015 All Rights Reserved

Designed by xetoyotahadong.com