chùa chuông có tên chữ là kim
chung tự, tên thường gọi là chùa chuông. theo truyền ngôn của nhân dân trong
vùng thì vào một năm đại hồng thuỷ, nước lụt mênh mông có một quả chuông vàng
trên một chiếc bè trôi dạt vào bãi sông thuộc địa phận thôn nhân dục, nhân dân
trong vùng đua nhau kéo về địa phương mình, nhưng không được, đến khi các vị bô
lão của làng ra làm lễ khấn trời đất rồi hô hào con em ra kéo thì quả chuông
được đưa lên nhẹ nhàng. dân làng cho là có trời phật giúp đỡ bèn góp công, góp
của dựng chùa, xây lầu treo chuông. chuông mỗi lần đánh lên tiếng ngân rất to
và vang xa, khắp vùng đều nghe thấy, mọi người truyền là quả chuông vàng và
chùa được đặt tên là "kim chung tự", có nghĩa là chùa chuông vàng.
mặc dù theo như truyền thuyết
và sự tích còn được lưu giữ tại chùa giải thích về nguồn gốc của tên gọi chùa
như vậy, song theo ý kiến của tác giả trần lâm biền trong cuốn "chùa việt" và nhiều nhà
nghiên cứu về đạo phật, cũng như lời kể của nhà chùa cho chúng tôi biết rằng:
mỗi khi tiếng chuông rung lên làm cho muôn vật hướng tới cửa thiền, đồng thời
làm cho những chúng sinh bị tội lỗi ở âm ty (địa ngục) được thoát khỏi các hình
phạt và trôi về gần cửa chùa hướng tâm tới phật đạo, mà tìm đường giải thoát.
đồng thời khi tiếng chuông rung lên cũng làm cho trời đất, muôn loài hoà hợp để
tạo nên sự phát sinh, phát triển. đó là một ý nghĩa gắn dịch học của nho giáo.
có lẽ chính vì vậy mà ngôi chùa được gọi là kim chung tự, với ý nghĩa nơi đây là tiếng chuông vàng, tiếng
chuông cảnh tỉnh, tiếng chuông diệt trừ những điều phiền não, tiếng chuông dẫn
con người vượt qua bến đời bến mê về miền giác ngộ [10].
Chùa tọa lạc trên một khu đất rộng ở phía nam thôn
nhân dục và nằm về phía cuối của phố nam hoà xưa (thời kỳ phố hiến), tương
truyền cảnh đẹp nơi đây đứng vào hàng danh lam cổ tích của phố hiến. trong bài
minh được khắc hoạ trên tấm bia đá dựng vào năm vĩnh thịnh thứ 7 triều lê
(1711) hiện còn đang được lưu giữ tại chùa, ghi như sau:
"kim chung thành tráng lệ
ngọc vụ mãn phong trần,
hổ cứ sơn trang cẩm,
long triều thuỷ đức ngân
địa linh nhân tuấn kiệt
thiên bảo vật hoa tân
quả (?) phúc duệ vạn cổ
công đức vĩnh thiên
xuân".
tạm
dịch:
"chùa chuông nên tráng lệ
nhà ngọc mãn phong trần
hổ phục núi điểm gấm
rồng chầu dải sông ngân
đất thiêng người tuấn kiệt
vật báu trời phát phân
quả phúc dài vạn cổ
công đức mãi
nghìn xuân [44.tr 139]
đến thăm di tích chùa chuông, đi từ ngoài vào chúng
ta phải đi qua một cổng tam quan. tam quan chùa chuông cũng giống như mọi tam
quan khác, với ý nghĩa: "tam" là ba; "quan"
là cửa, nhưng ngoài ý nghĩa là ba cửa để ra vào nhà chùa, nó còn mang ý
nghĩa là ba lối nhìn, cách nhìn, cho nên tam quan là 3 nhận thức hay là 3 cách
nhìn về giáo lý nhà phật, đó là: không quan, giả quan và trung quan.
tam quan chùa chuông mang dáng dấp của một nghi môn hơn là một tam quan bởi vì
2 cổng bên là 2 tầng 8 mái, cổng chính giữa là 3 tầng 12 mái. đằng sau tam quan
đó còn rải rác những hiện vật như: lân đá, chồn đá được đặt ở hai bên lối vào
mà các nhà nghệ thuật học xếp chúng thuộc sản phẩm nghệ thuật của cuối thế kỷ
xvii đầu thế kỷ xviii. đây là những hiện vật rất đẹp của chùa chuông nói riêng
và đất hưng yên nói chung. người ta vẫn nhìn thấy ở đấy những con sư tử đá hay
chồn dạng sư tử này mang tư cách là những linh vật đứng đó để kiểm soát tâm hồn
kẻ hành hương [10], [11].
sau tam quan
là một con đường duy nhất, dẫn người ta tới sự giải thoát, gọi là "nhất
chính đạo". con đường đi từ tam quan vào đến tận tiền đường được lát
đá đó cũng còn được gọi là đường "linh đạo". đây là một yếu tố
thuộc kiến trúc truyền thống mà chúng ta rất ít thấy còn ở các ngôi chùa khác,
bởi theo các nhà nghiên cứu về phật học, thì
"đá" đã tự có chất thiêng để truyền dẫn linh khí của trời đất, là nơi
chứa đựng linh khí, sinh lực của vũ trụ, cho nên con đường này như còn có ý
nghĩa là con đường sinh lực, con đường nâng bước chân của con người vào đạo. đi
qua hồ nước, ngay phía sau tam quan, con đường của "đạo" được thể
hiện bằng một cây cầu đá. hiện nay ở nước ta cầu đá không còn nhiều. có thể
thấy như ở khu vực chùa dâu và lác đác ở một vài nơi như ở ninh bình hay ở dưới
khu vực hải hậu - nam định và một vài nơi khác nữa. vì thế chiếc cầu đá nằm
trên đường nối qua hồ nước (nơi tụ thuỷ) này là một sản phẩm vừa mang ý nghĩa
về nghệ thuật, vừa mang ý nghĩa thuộc lĩnh vực tâm linh, dẫn con người vào với
đạo. nó nằm ở đằng sau tam quan, trên "nhất chính đạo", vì thế
cũng được nhà chùa cho là cầu "giác", có nghĩa: khi con người ta vượt
qua cầu này để đi vào chùa là đi trên
dòng trí tuệ để giác ngộ, mà đạo phật dạy rằng nhờ
có trí tuệ mới đi đến giác ngộ và có giác ngộ thì mới đi đến giải thoát được.
tiếp đến là toà tiền đường gồm có 5 gian, 2 chái, nhưng hai gian đầu hồi
được nảy ra phía trước để tạo ra mặt bằng của toà tiền đường này, có hình chữ u
để tránh trình ra trước mắt 7 gian. và như thế, nó đã phá đi được cái cứng nhắc
của kiến trúc. toà tiền đường được tu tạo tương đối muộn và có kết cấu theo
kiểu "vì kèo trụ trốn bốn hàng chân", tuy nhiên ở đây vẫn giữ được
phong cách cổ truyền đảm bảo được giá trị nghệ thuật truyền thống.
toà tiền đường nối với các hành lang tạo nên 1 hệ
thống kiến trúc liên hoàn bao quanh lấy thượng điện, không như những ngôi chùa
khác là toà này lại có một ống muống nối
với thượng điện. trong cái thể kiến trúc kết nối liên hoàn này giữa tiền đường,
thượng điện, hai dãy hành lang và nhà hậu, còn gọi là kiến trúc kiểu "tứ
thuỷ quy đường". kết cấu này đã tạo ra một khoảng sân trống ở phía
trước thượng điện, được gọi là "thiên tỉnh", để lấy ánh sáng - sinh
khí của trời. trong khoảng giữa "thiên tỉnh" ấy, người ta dựng một
cây hương bằng đá, bốn mặt của cây
hương khắc các bài văn có niên đại vào năm chính hoà 23 (1702) kể về việc tô tượng, làm
gác chuông, gác khánh ... trên đỉnh của cây hương đó có bát hương, để mỗi khi
thắp hương thì khói sẽ bay lên, tạo một sự liên kết giữa trời với đất nhằm
truyền tải ước vọng của con người với đấng thiêng liêng. những cột đá này đã
được nhiều nhà nghiên cứu cho là "trục vũ trụ" để nối giữa trời và
đất, nó mang tư cách "thiên thạch trụ" như ở nhiều di tích khác, mà
chúng ta thấy điển hình như ở chùa bồng lai (đan phượng - gần chèm - hà nội),
đền thờ an dương vương (cổ loa). thiên thạch trụ này rõ ràng ăn chân qua đế
vuông, nối với đất (âm) còn phần ở phía trên là nối với trời (dương), nó cũng
mang tư cách như là một cái gạch nối để cho âm dương đối đãi. song, trong nhận
thức của người việt thì chất liệu đá tự
nó đã chứa một sinh lực vô biên, thiêng liêng đồng thời nó cũng là vật chuyển
tải sinh lực vũ trụ.
Thiên thạch trụ Chùa Chuông Phố Hiến Hưng Yên |
tiếp đến là toà thượng điện, cũng mới được trùng tu
lại, nên rất khang trang và đâu đấy trên các đầu bẩy chúng ta vẫn còn thấy
những dấu vết còn lại từ thế xvii: đó là những mảng chạm trang trí với cái đao
mác, những vân xoắn mà như cách giải thích trong cuốn "trang trí trong
nghệ thuật cổ truyền" thì chúng ta có thể hiểu đó là những ước vọng
cầu mưa của tổ tiên chúng ta. [11]
tượng chùa hiện nay khá đầy đủ được sắp xếp tương đối nghiêm chỉnh. hàng trên cùng là bộ
tượng tam thế phật (tên đầy đủ là "tam thế thường trụ diệu pháp thân"
hay "tam thế tam thiên phật) đại diện cho 3 nghìn vị phật ở quá khứ,
hiện tại, tương lai. đỉnh đầu tượng tam
thế có phần tròn lồi (đứng ở dưới không nhìn thấy), gọi là "vô kiến
đỉnh tướng", tượng trưng cho trí tuệ cao hơn hết của đức phật; tóc
xoắn ốc tượng trưng cho những "chữ thánh", đó là: đức tự, cát
tường tự, vạn tự ... nhờ được những chữ thánh ấy mà
trí tuệ được nuôi dưỡng và là cái "bệ đỡ" cho "nhục kháo",
càng biểu hiện cho trí tuệ viên mãn của đức phật. mặt tượng nhìn xuống để soi
rọi nội tâm. mũi thẳng, cân phân đầy đặn biểu hiện chính nhân quân tử. miệng
thoáng nụ cười mang nghĩa cảm thông và cứu độ; đỉnh tai cao hơn đuôi lông mày
để biểu hiện quyền uy và thuỳ tai thấp hơn mũi để thể hiện đại tâm từ bi [10].
Tượng thập bát la hán Chùa Chuông Phố Hiến |
theo các nhà nghiên cứu về nghệ thuật học thì ba
pho tượng này có niên đại tương đối muộn, nhưng các đài sen thì lại được làm
vào thế kỷ xvii với những cánh sen múp phồng, mũi nhô hẳn ra. tiếp xuống phía
dưới là các lớp tượng: di đà tam tôn, tượng chuẩn đề, ngọc hoàng thượng đế ...
nhìn chung hệ thống tượng pháp trên thượng điện của chùa tương đối đầy đủ và là
những pho tượng đẹp, hầu hết là có niên đại từ cuối thế kỷ xvii về sau. đây
thực sự là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
cách đây vài năm được sự cho
phép của bộ vhtt thì hệ thống tượng chùa gồm: tượng thập bát la hán (mà nhiều
người còn gọi là tượng "truyền đăng") cũng như động quan âm và hệ
thống phù điêu về thập điện diêm vương đã được làm lại, khiến cho ngôi chùa đã
trở thành một trung tâm văn hoá của thị xã hưng yên - điểm neo chân khách hành
hương đến chiêm ngưỡng nghệ thuật truyền thống và gửi gắm tâm hồn của mình vào
cõi thiền.
được sự cho phép của bộ văn
hoá thông tin, hiện nay chùa chuông đang được tiếp tục tu sửa gác chuông và gác
khánh phía sau, nối liền với thượng điện và cùng với hai dãy hành lang, tạo
thành thế liên hoàn, làm cho di tích trở nên bề thế, uy nghiêm. tiếp nối phía
sau gác chuông, gác khánh, qua một sân gạch rộng là nhà tổ và cũng là nơi thờ
mẫu, vừa được tu bổ vào năm 1997.
Cây cầu đá trên đường nhất chính đạo từ tam quan vào |
cùng với giá
trị nghệ thuật về mặt kiến trúc, tượng pháp, các di vật của chùa chuông cũng
góp phần không nhỏ trong việc nhìn nhận, nghiên cứu về phố hiến gồm: chuông,
khánh, bia đá, các đồ tế tự ... trong đó đáng kể
nhất là tấm bia đá cao 165cm, rộng110cm được dựng vào năm tân mão, niên hiệu
vĩnh thịnh thứ 7 (1711). bia được đặt tại hành lang bên phải phía trong chùa.
phần trán bia khắc nổi hình "lưỡng long chầu nguyệt", diềm bia trang
trí hoa lá cách điệu. mặt trước bia có tiêu đề "kim chung tự thạch bi
ký". phần đầu bia giới thiệu việc lập bia do quan viên trưởng lão, thiền
tăng sãi vãi thuộc xã nhân dục huyện khoái châu. tiếp theo miêu tả cảnh danh
thắng, hào khí anh linh sông nước nơi đây. mặt sau bia có tiêu đề "nhân
dục xã cổ tích truyền" ghi tên
tuổi những người đã góp công góp của tôn tạo chùa. phần cuối văn bia có ghi các
đơn vị phường của phố hiến. đây thực sụ là một tư liệu quý giúp chúng ta thấy
được hình ảnh của hoạt động thương nghiệp, thủ công nghiệp của đô thị cổ phố
hiến trong thời kỳ thịnh đạt của nó.
SOCIALIZE IT →